Mô tả Mèo Maine Coon

Maine Coons là một trong những nòi mèo nhà to lớn nhất. Con đực cân nặng vào khoảng 15 đến 25 lb (6,8 đến 11,3 kg) còn khối lượng con cái dao động từ 10 đến 15 lb (4,5 đến 6,8 kg).[20] Chiều cao của mèo trưởng thành có thể dao động trong khoảng 10 và 16 in (25 và 41 cm) và chiều dài có thể lên tới 40 in (100 cm) (tính cả đuôi với chiều dài có thể lên tới 14 in (36 cm))[21]. Đuôi của mèo Maine Coon khá dài, thon hình búp măng và có lông dày và dài, nhìn giống như đuôi của gấu trúc Bắc Mỹ. Cơ thể chúng khá rắn chắc và vạm vỡ, cần thiết để nâng đỡ trọng lượng lớn của chúng, và bộ ngực thì rộng. Mèo Maine Coon có cơ thể hình hộp chữ nhật và trưởng thành thể chất khá muộn: thông thường con vật chỉ đạt được kích thước tối đa khi vào khoảng 3 tới 5 tuổi trong khi các nòi mèo khác chỉ cần 1 tuổi để trưởng thành thể chất.[22]

Vào năm 2010, Sách Kỷ lục Guinness ghi nhận một con mèo Maine Coon thuần chủng tên là "Stewie" là cá thể mèo có chiều dài lớn nhất: 48,5 in (123 cm) tính từ đầu mũi tới chót đuôi.[23][24]

Maine Coon là giống mèo có bộ lông dài hoặc trung bình, mềm và mượt - mặc dù kết cấu lông có thể thay đổi tùy con. Đầu và vai mèo có lông ngắn hơn trong khi lông bụng và sườn thì dài hơn mặt bằng chung, một số cá mèo cũng có phần lông dài mọc quanh cổ tựa như bờm sư tử. So với các nòi mèo lông dài khác thì Maine Coon không yêu cầu phải được chủ chải chuốt nhiều do chúng tự chăm sóc lấy lông của mình đồng thời lớp lông lót có mật độ không cao. Bộ lông thay đổi theo mùa,[25] cụ thể lông mọc dày hơn vào mùa đông và mỏng đi vào mùa hè. Do kích thước lớn, móng của mèo Maine Coon cũng rất lớn và có nhiều trường hợp con vật dùng bộ móng đồ sộ của mình để bấu chặt vào tường.

Giống như nhiều nòi mèo khác, Maine Coon có thể có nhiều màu lông khác nhau. Màu lông có thể bao gồm những kiểu lai như màu sôcôla, màu hoa oải hương, màu kiểu mèo Xiêm hay màu muối tiêu, tuy nhiên tiêu chuẩn nòi không chấp nhận các kiểu màu này.[9] Bộ lông thông dụng nhất là màu nâu kiểu mèo khoang.[26] Tất cả các màu mắt đều được chấp nhận; tuy nhiên đối với mèo Maine Coon không có bộ lông trắng, các kiểu mắt xanh hay kiểu mỗi mắt một màu thì không được chuẩn y.[25]

Mèo khoang giống Maine Coon lông xám bạc trong tuyết.

Mèo Maine Coon có một số đặc điểm thể chất giúp thích nghi trong khí hậu lạnh giá. Bộ lông dày và không thấm nước của chúng dài và bờm xờm hơn ở mặt dưới và xùng sau lưng nhằm bảo bọc chúng tốt hơn khi con vật di chuyển hoặc ngồi trên các bề mặt ướt của tuyếtbăng.[27] Chiếc đuôi dài và nhiều lông có khả năng chống chịu tốt trước sự sinking trong tuyết và có thể được cuộn quanh mặt để che gió, tuyết và cuộn thành vòng tròn sau lưng để làm một cái đệm ngồi giữ ấm trên các bề mặt lạnh của băng tuyết.[28][29] Móng vuốt lớn đặc biệt đối với các cá thể Maine Coon mắc tật tật dư ngón[30] giúp mèo di chuyển tốt hơn trên tuyết, đóng vai trò giống như những chiếc giày đi tuyết.[27] Những chùm lông dài giữa ngón có tác dụng giữ ấm và cũng giúp cho việc di chuyển trên tuyết bằng việc cung cấp cho ngón chân có thêm những cấu trúc phụ mà không làm tăng quá nhiều khối lượng.[29] Đôi tai mọc lông dày với những chòm lông dài mọc phía trong tai tạo thêm một lớp lông giữ ấm cho cơ quan này.[27]

Nhiều cá thể mèo Maine Coon ở New England có đặc điểm là nhiều ngón chân hơn bình thường.[27] Trong khi một số nguồn cho rằng từng có thời điểm đến 40% số mèo Maine Coon tại Maine mắc phải chứng dư ngón, ít có bằng chứng nào ủng hộ những thông tin như vậy.[31] Thật ra mèo Maine Coon dư ngón rất ít khi xuất hiện trong các cuộc thi mèo vì đây là đặc điểm không được chấp nhận theo tiêu chuẩn thi.[32] Đặc điểm dư ngón này do một gien trội nằm trên nhiễm sắc thể thường quy định[33] và không gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng nào cho sức khỏe của con vật.[34] Tuy nhiên đặc điểm dư ngón này hiện gần như tuyệt tích bởi chọn lọc nhân tạo vì những con mèo dư ngón sẽ bị đánh rớt trong các kì thi.[35] Một số người gây giống và tổ chức tư nhân hiện đang cố gắng bảo tồn đặc điểm dư ngón này của Maine Coon.

Mèo Maine Coon được gọi là "người khổng lồ dịu dàng"[6] và có trí thông minh cao hơn mặt bằng chung vì vậy chúng tương đối dễ huấn luyện.[5] Chúng được cho là trung thành với chủ và cảnh giác cao - mặc dù không hung dữ - với người lạ, tuy nhiên khá độc lập và không có thói quen bám dính vào chủ.[28] Chúng cũng không phải là dạng mèo dễ dãi nhưng với tính khí hiền lành thì Maine Coon không tỏ ra khó chịu với sự có mặt của các vật nuôi khác và của trẻ em. Chúng cũng là nòi mèo thích chơi giỡn, trong đó con đực tỏ ra quê kệch hơn và con cái thì chững chạc hơn, nhưng nhìn chung là dễ mến.[27] Nhiều cá thể Maine Coon tỏ ra thích nước[28] và một số ý kiến cho rằng đặc tính này bắt nguồn từ việc tổ tiên của chúng thường xuyên ở trên tàu trong các chuyến hải hành.[7] Một tính cách nổi bật khác của Maine Coon là hay kêu, bao gồm việc kêu meo meo, chattering, chirping, và hay "nói chuyện" (nhất là "trả lời" lại chủ).[36]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Mèo Maine Coon http://www.acf.asn.au/Standards/Maine_Coon.htm http://www.acfacat.com/maine_coon_standard.htm http://www.acfacat.com/maine_coon_synopsis.htm http://www.acfacats.com/maine_coon_standard.htm http://www.catchannel.com/Magazines/popular-cats/p... http://www.catchannel.com/kittens/breed_history/ma... http://animal.discovery.com/guides/cats/selector/n... http://www.fanciers.com/breed-faqs/maine-coon-faq.... http://books.google.com/books?id=9lGTIbYkXxMC&pg=P... http://www.iams.com/iams/en_US/jsp/IAMS_Page.jsp?p...